🎖️ Ai Giết Nguyễn Bình

Mới đây, chiều 26/8/2022, Shark Bình và ca sĩ, diễn viên nổi tiếng Quỳnh Nga với biệt danh "cá sấu chúa", đã liên tục được cộng đồng mạng nhắc tới và tìm kiếm. Xu hướng này nhanh chóng đưa chủ đề 'Shark Bình' và 'Quỳnh Nga' lên top tìm kiếm Google, do công cụ Google Trends Năm 1936, ông được trả tự do, về Hải Phòng hoạt động cách mạng và xây dựng căn cứ riêng. Cũng trong thời gian này, ông đổi tên thành Nguyễn Bình, với ý nghĩa "Bình thiên hạ", chính thức ly khai Việt Nam Quốc dân đảng. Tháng 6 năm 1945, Nguyễn Bình cùng với Hải Thanh Đấu trí tập 66 tối nay 20.10 lúc 21 giờ trên VTV1 tiếp tục hé lộ những tình tiết càng gần về cuối phim càng hấp dẫn. Bởi “trùm cuối” của nhóm lợi ích có thể là chủ tịch tỉnh Đông Bình hoặc một người nào khác “trên cơ" hơn. TTO - Liên quan đến vụ tài xế lái chiếc ô tô tông chết người ở bờ kè TP Phan Thiết gây xôn xao dư luận, ngày 19-10, Viện KSND tỉnh Bình Thuận cho biết đã hoàn tất cáo trạng truy tố bị can Phạm Văn Nam (43 tuổi, quê Ninh Bình) về hành vi giết người. Đồng thời, cáo trạng Ngày 8/5, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh vừa khởi tố vụ án, khởi tố bị can Đặng Tuấn Trường, sinh năm 1997, trú tại xã Hưng Đạo, huyện Nguyên Bình về tội giết người. Trước đó, ngày 4/5 Công an huyện Nguyên Bình tiếp nhận tin báo của anh Lý Tòn Lải, trú tại Ai giết anh em Ngô Đình Diệm » Chương 20: Diễn tiến của một cuộc binh biến - Ba phiên họp lịch sử. Thư viện Vinadia - Lịch sử. Hồ sơ. Hồi ký. Tùy bút. Văn chương. Âm nhạc. Mỹ thuật. Tư tưởng. Ông Nguyễn Bá Thanh trực tiếp tham dự một phiên toà có tiếng kêu oan của người dân. Từ đó, ông lo đến cái mất thứ hai: “Nếu tốc độ phát triển của TP trì trệ, không đáp ứng sự trông đợi của nhân dân thì cán bộ sẽ bị kỷ luật, bị thay đổi hoặc hạ tầng công Tôi giết Nguyễn Bình. Hồi ký của Tham Mưu Trưởng trung đoàn 25 Bình Xuyên. Trần Kim Trúc Nhà xuất bản Đồng Nai, 1972 37. Phong trung tướng, Nguyễn Bình nở mặt; 38. Ấp An Điền nhiều dân thổ mộ; 39. Mượn danh Mười Trí giết Nguyễn Bình; 40. Chú bếp Tuồng nhảy theo bộ đội; 41. Chính bị bắt, Nguyễn Bình xúc động; 42. Tại Vườn Thơm, Minh Khai ra mắt; 43. Ra bưng chơi may gặp Nguyễn Bình; 44. yPmPot. Khu tưởng niệm Anh hùng Dân tộc Nguyễn Huệ AI GIẾT VUA QUANG TRUNG * Trang Wiki viết Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết về cái chết của vua Quang Trung được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi Quang Trung giả sang Yên Kinh gặp Càn Long, được Càn Long tặng cho chiếc áo, có thêu 7 chữ Xa tâm chiết trục, đa điền thử 車心折軸多田鼠 Nghĩa là Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng Theo phép chiết tự, chữ "xa" 車 và chữ "tâm" 心 ghép lại thành chữ "Huệ" 惠 là tên của Nguyễn Huệ; "chuột" nghĩa là năm tý Nhâm tý 1792. Ý của dòng chữ trên áo là Nguyễn Huệ sẽ chết vào năm Tý. Giả thiết này ý nói rằng Nguyễn Huệ chết do áo bị yểm bùa. Bình Nếu chuyện này có thật. Có thể các cao thủ TỬ VI nhà Thanh hồi ấy. Đoán được năm mất của Vua Quang Trung. Chắc chắn Vua Quang Trung vốn không tin cậy nhà Thanh, đã đưa người cải trang nhà Vua qua bên ấy, cũng không dại gì mặc chiếc áo có có vận xui “Huệ bị gảy trục”, tương đối dễ phát hiện, chỉ có ba chữ sau khó hiểu, chỉ khi nào sự cố sẩy ra mới giải thích được Sách Ngụy Tây liệt truyện, một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn ghi giải thích cái chết của vua Quang Trung như sau “Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng “Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm... Từ đó, bệnh chuyển nặng..." Sách Tây Sơn thực lục cũng có ghi "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi...". Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng một năm Càn Long thứ 58 1793, Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long "Quang Trung đã chết vì bệnh". Cũng một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Một giáo sĩ tên Longer, có mặt ở Đàng Ngoài vào những thời điểm này, đã viết trong một bức thư đề ngày 21 tháng 12 năm 1792 là vua Quang Trung chết vì bệnh, nhưng không rõ là bệnh gì. Các nhà nghiên cứ về sau gạt bỏ các chi tiết mê tín trong Ngụy Tây liệt truyện thì họ cho rằng Quang Trung đã bị một cơn tăng huyết áp đột ngột Bác sĩ Bùi Minh Đức qua khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử, kết luận rằng Nguyễn Huệ "Xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong do viêm phổi sặc". Trang Thu viện Bình Định viết Suốt hai thế kỷ qua, nhiều điều nghi vấn về cái chết của vua Quang Trung vẫn chưa được "giải tỏa" một cách thỏa đáng. Liệu khoa học pháp y ngày nay có thể mang lại lời giải thích nào chăng? VÀI GIẢ THUYẾT Vua Quang Trung mất vào tuổi bốn mươi, giữa lúc đang chuẩn bị thực hiện hai ý đồ hết sức lớn lao ông dự tính mở một chiến dịch lớn để tiêu diệt quân Nguyễn Ánh và bọn can thiệp Pháp để hoàn thành việc thống nhất đất nước; đồng thời tích cực đòi lại hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông từ nhà Thanh bên Trung Quốc. Trong bối cảnh lịch sử như vậy, triều đình đã tuyệt đối giữ bí mật về cái chết của nhà vua, ra lệnh giới nghiêm "nội bất xuất, ngoại bất nhập" ngăn chặn từ xa mọi con đường tới kinh đô Phú Xuân. Đến nỗi ngay người anh cả của nhà vua là Nguyễn Nhạc, khi nghe tin vua mất, dẫn một đoàn hơn ba trăm người từ Quy Nhơn ra cũng bị chặn lại ở Quảng Ngãi, chỉ để có một mình bà chị được đi tiếp. Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục. Có thể tập trung những giả thuyết này vào những ý chính sau đây 1. Trong khi tích cực chuẩn bị binh mã để tiến đánh chiếm Quảng Tây, Quảng Đông, vua Quang Trung đã làm một động tác ngoại giao nghi binh phái Đại tường Võ Văn Dũng cầm đầu một thái đoàn sang triều đình nhà Thanh dâng biểu xin cầu hôn con gái vua Càn Long và đòi lại đất lưỡng Quãng, cốt để "dò xem ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây binh đao" Hoàng Lê Nhất Thống Trí, và Đại Nam chính biên liệt truyện. Vua Càn Long lúc đó đã tám mươi tuổi, đã trị vì hơn sáu mươi năm, là người đã hết sức lão luyện về mọi mưu mô chính trị, liệu còn có thể bị "đánh lừa" như khi tiếp "Quang Trung giả" ở nhiệt Hà và Bắc Kinh với những lời thơ chan chứa tình cảm "Mới gặp nhau mà như đã thiên thu… Người xa nhưng Trẫm luôn nhắc nhở. Hội ngộ thịnh thời thỏa ước mơ"? Lần này, chắc chắn vị vua cáo già ấy đã nhìn rõ ý định của vua Quang Trung nên "tương kế tựu kế" một mặt chấp nhận cả hai đề nghị của vua Quang Trung, mặt khác lại cho người sang ám hại nhà vua bằng thứ võ khí nham hiểm nhất là thuốc độc. 2. Vào năm 1961, một người tên Nguyễn Thượng Khánh, tự nhận mình thuộc chi phái Lê Duy Mật của hoàng tộc nhà Lê, đã viết một loạt bài đăng trên tạp chí Phổ thông xuất bản ở Sài Gòn từ số 61 đến 65 dưới nhan đề "Vua Quang Trung chết vì một liều độc dược của Ngọc Hân công chúa". Ông cho đó là một sử liệu bí mật của dòng họ nhà ông, có liên quan đến lịch sử mà "xưa nay chưa ai phát hiện ra". Theo ông này, khi được tin vua Càn Long hứa gả con gái cho Quang Trung, "trong một phút bồng bột vì quá ghen, Ngọc Hân đã bỏ thuốc độc cho Quang Trung uống". Đi xa hơn nữa, ông còn cho rằng "cuộc hôn phối giữa Nguyễn Huệ và Ngọc Hân không là cuộc hôn phối tốt đẹp, lẽ tự nhiên có một sự oán hờn bên trong", và "nếu không vì chữ hiếu thì Ngọc Hân đã có thể chết đi được khi nàng được tin phải làm vợ của tướng Tây Sơn”. Lại đi xa hơn nữa, ông còn cho rằng “bài văn tế Quang Trung và Ai Tư vãn cho là của Ngọc Hân công chúa nhưng sự thật chưa hẳn đã đúng…” Những bài báo của ông Khánh đã gây ra một sự phẫn nộ và phản ứng mạnh mẽ không những từ các nhà học giả, giới tri thức mà cả từ con cháu dòng dõi Lê Duy Mật ở rải rác khắp miền Nam. Sau đó, nhiều bài báo đã vạch ra những sai lầm, dốt nát về lịch sử của ông Khánh, phê phán óc tưởng tượng bệnh hoạn của ông đã dám xúc phạm đến những vị anh hùng, liệt nữ được cả dân tộc mến yêu. Cuối cùng, người ta đã về tận sinh quán của ông Khánh để tra cứu gia phả thì xác minh ông không phải là dòng dõi Lê Duy Mật như ông đã tự nhận. Như vậy, tóm lại chỉ có hai giả thuyết chính nhà vua đã chết vì đầu độc, hay chết vì bệnh nhưng không rõ là bệnh gì. THỬ PHÂN TÍCH THEO KHOA HỌC PHÁP? Về mặt pháp y, thông thường chỉ có bốn nguyên nhân gây ra cái chết. Đó là chết vì tai nạn xe cộ, lao động..., chết vì tự sát, chết vì án mạng bị giết và chết tự nhiên bệnh tật, tuổi già.... Trong thực tế thì phức tạp hơn nhiều một vụ án mạng có thể được ngụy trang thành một vụ tự tử, một tai nạn, thậm chí một vụ chết tự nhiên. Và ngược lại, có những dấu hiệu có thể làm nhầm lẫn một tai nạn, một vụ tự tử , một cái chết tự nhiên với một vụ án mạng tinh vi có chủ mưu. Trong trường hợp vua Quang Trung, có thể loại bỏ ngay nguyên nhân tự tử. Còn về nguyên nhân tai nạn thì có nghi vấn, không có sử sách nào nói trong suốt cuộc đời trận mạc, nhà vua đã có lần nào bị thương chưa, bị thương ở phần nào của cơ thể, nhất là có bị thương vào đầu không chấn thương sọ não. Về hai nguyên nhân chính bị đầu độc và bị bệnh - thì hai nguyên nhân này cũng không loại trừ nhau. vì có thể có những vụ "đầu độc dần dần", gây nên một sự nhiễm độc chậm, không làm chết nhanh chóng, chết đột ngột mà làm cho cơ thể bị nhiễm độc biểu hiện ra bằng những triệu chứng có thể nhầm với bệnh tật. Ngược lại, cũng có những bệnh tật thực sự, trong quá trình diễn biến sinh ra độc tố, có thể biểu hiện ra bằng những dấu hiệu giống như bị đầu độc. Trong trường hợp của vua Quang Trung , có thể khẳng định nhà vua không chết đột ngột mà đã trải qua một quá trình bệnh tật nhiều ngày "Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết...", được Ngọc Hân tận tình cứu chữa, lo chạy "khắp mỗi chốn đâu đâu tìm rước. Phương pháp nào đối được cùng chăng?" - Ai Tư vãn. Chúng tôi cho rằng có thể gạt bỏ giả thuyết bị đầu độc, vì để đầu độc một người chết dần dần như bị bệnh không phải là chuyện dễ, phải có chất độc thích hợp. Chất gì, kiếm ở đâu ra, làm sao mang được vào trong cung vua, dùng với liều lượng nào để không gây chết nhanh, Trong lịch sử nước ta, không hề nghe nói có vụ nào dần dần như vậy. Uống thuốc độc tự tử hay "tam ban triều điển" thường là chết rất nhanh, vừa uống khỏi mồm là đã vật vã chết rồi. Cuối cùng, chỉ có giả thuyết chết vì bệnh có lẽ gần sự thật nhất. Nhưng chết vì bệnh gì? Suy luận theo những kiến thức Tây y đương đại, chúng tôi nghĩ rằng một con người như vua Quang Trung, đang ở độ tuổi sung sức, hoạt động mãnh liệt, đánh đông dẹp bắc, ngày đêm lo nghĩ, có một cuộc sống cực kỳ căng thẳng, nói như ngày nay là "luôn luôn bị những stress" như vậy thì không tránh khỏi bệnh cao huyết áp. Thêm vào đó là chế độ dinh dưỡng của một ông vua ngày nào cũng mỡ thịt phủ phê, làm sao không để lại một tỉ lệ cholestérol cao trong máu, dẫn đến xơ vữa động mạch - nguyên nhân của những tai biến mạch máu não. Ta không thể bỏ qua được điều giải thích trong sách Ngụy Tây liệt truyện gạt bỏ những chi tiết mê tín dự đoan và ác ý chính trị thì cái lõi còn lại chính là triệu chứng của một cơn tăng huyết áp đột ngột, mà Tây y mô tả như, ở thời chiến trận ngày xưa, người ta dùng những cây gỗ thật lớn lao vào cửa thành để phá cửa Un coup de bélier hypertensif - Người bệnh bỗng xây xẩm mặt mày, ngã xuống bất tỉnh... Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng giả thuyết vua Quang Trung chết vì bệnh có thể là gần sự thật hơn cả. Nhà vua có thể từ lâu đã bị cao huyết áp, và đã chết vì một tai biến mạch máu não. Dù sao, giả thuyết vẫn chỉ là giả thuyết thôi, bao giờ cũng khập khiễng và để lại nhiều tồn nghi./. Trên phương diện TỬ VI ta thấy gì? Hai hạn của nhà Vua có nhiều đối tượng. Đại hạn có Huynh, Tử. Tiểu hạn có Thê. Nhưng không có thù oán, oan khốc tại 2 hạn, chỉ có Cô Quả không giao du. Đặc biệt cung Huynh Đề của Vua có BỆNH PHÙ Tam Không có Hình xung... Đây chỉ mới xung thôi, nơi THIÊN HÌNH trừng phạt chính là cung Nô Bộc. Cung Nô Bộc bị HÌNH KHÔI KHÔNG KIẾPCỰ ĐỒNG... Nhà vua từng giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm một số tướng của Tây Sơn phải đầu quân cho Nguyễn Vương. Cũng trong đại hạn này năm Đinh Mùi 1787 hai anh em xung đột với nhau, theo mô tả của Wiki vắn tắt dưới đây. Nếu an lưu động bạn sẽ thấy năm đó tại Huynh Đệ cung có Lưu KÌNH. Ở đây người viết không muốn đi sâu vào cung Huynh Đệ nhưng nhằm chứng minh, loại trừ cung Huynh Đệ không có dính dáng đến cái chết của nhà vua. Sau này người viết sẽ chứng minh một người bị người khác giết, khác với đau ốm bệnh tật như thế nào, mặc dù tại đây có Âm nhưng không có thể đưa đến âm mưu ám hại. Hai anh em không ưa nhau từ chỗ âm thầm đã chuyển qua công khai đánh nhau, đó chẳng qua là việc làm bất đắc dĩ. Ứng hợp với cung đại hạn có thấy cung Huynh Đệ. Trang Wiki viết Mâu thuẫn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ngày càng lớn. Vua Tây Sơn vốn không có ý đánh ra Bắc Hà, chỉ muốn chiếm Nam Hà việc Huệ đánh Bắc Hà là trái ý Nguyễn Nhạc, lại thấy Nguyễn Huệ ở Bắc Hà lâu quá sau khi thắng nên Nguyễn Nhạc đâm ra lo sợ vì khó kiềm chế được Nguyễn Huệ. Nguyễn Nhạc tuyển một đội lính hộ tống đi ra Bắc và đòi Nguyễn Huệ về. Dù chính Nguyễn Huệ đã ra tận ngoài cửa ô tiếp đón, cả hai cùng đi triều kiến vua Lê rồi về Nam nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa bằng lòng. Tới Phú Xuân, Nguyễn Huệ ở lại còn Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đưa ra nhiều đòi hỏi tỏ uy quyền mà Nguyễn Huệ từ chối bắt Nguyễn Huệ đi chầu, nộp chiến lợi phẩm và nộp đất Quảng Nam.. Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc và binh lính lại rất trung thành với ông. Nguyễn Nhạc phẫn chí, giết công thần Nguyễn Thung, hiếp vợ Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ chiếm nốt kho vàng của Tây Sơn ở Quy Nhơn để vận hành chiến tranh, thế là chiến tranh xảy ra. Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc trong vài tháng đầu năm 1787, ông tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân. Họ đánh nhau dữ dội và sau đó Nguyễn Huệ tiến đến vây thành Quy Nhơn, đắp thành đất, bắn đại bác vào thành. Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải vào đền thờ cha mẹ khóc rồi kêu Đặng Văn Chân từ Gia Định về cứu nhưng quân Đặng Văn Chân tới nơi lại bị Nguyễn Huệ đánh tan, buộc Đặng Văn Chân phải tới hàng. Tuy quân của Nguyễn Huệ trong các cuộc công thành thương vong đến phân nửa nhưng tình thế buộc Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc xin em "Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế". Nguyễn Huệ nể tình anh em, thôi hãm thành và bằng lòng giảng hòa với vua anh, rồi rút về Thuận Hóa MỆNH của vua Quang Trung hưởng cách “Hưởng đắc an toàn chi phúc” không bị thương tích vào thân thể, không bị ám toán, không bị phá cách. Nếu có, thì đáng nghi ngờ. Cho nên bị ám hại nên loại trừ, tuy nhiên cung an Thân có Lang Hổ, thiên về mâu thuẩn trên dưới nội bộ. Phúc Đức cung chỉ báo ngắn ngủi mà thôi. Đại hạn của nhà vua THÁI DƯƠNG có tính minh bạch công khai rõ ràng, tiểu hạn có tính bí mật của TỬ VI chứ không âm mưu, âm thầm, mờ ám như THÁI ÂM. Ta có quyền nghi nghi vì bên ngoài TỬ VI có cả 2 Kỵ hội họp. Nếu có thêm Hình mới đáng ngờ hơn. Cái chết của vua Quang Trung, ở đây ta chỉ bàn sâu về chết vì cái gì, bệnh hay bị ám toán mà thôi. MỆNH THẤT SÁT hạn ngộ LỘC TỒN là một yếu tố xấu. 5 ăn 5 thua. LỘC TỒN lại có CỰ MÔN xung. Cát xứ tàng hung. Đại hạn ngộ Dương hãm Tuần tiểu hạn ngộ TỬ VI, THIÊN PHỦ TRIỆT mà ta biết TỬ VI rất kỵ TRIỆT. Cả 2 hạn đều ngộ Không Vong, lại có Lưu TUẦN TRIỆT. Như vậy cả 2 hạn bị Vong Tinh cố định và lưu động, Trong đó TỬ VI kỵ nhất. Vì dễ cái họa “ giữa đường đứt gánh”, “Từ bỏ nhiệm vụ”, “Tử vong cách”... nếu thấy thêm THIÊN KHÔNG thì cực xấu. Cũng tại đại hạn này có bộ KHÔI VIỆT BỆNH PHÙ chủ Phát Sinh Bệnh., tiểu hạn cũng gặp bộ sao lưu động cùng tên, chủ Vua phát Bệnh mà mất. Chưa hết chuyện nhà vua còn thêm cách xấu nữa. Lưu Đại BẠCH HỔ tại MỆNH. Và “THẤT SÁT lưu niên BẠCH HỔ tai thương”. Nếu cộng tất cả các yếu tố đó lại, nhẹ tay cũng 5 điểm xấu. Mà 5 điểm xấu là coi như mạt lộ, trong đó TỬ VI ngộ TRIỆT lại gặp Lưu TUẦN TRIỆT lại thêm lưu lưỡng Kỵ, chỉ riêng yếu tố này thôi là trên 2 điểm xấu. Chết vì lý do gì? Bệnh gì? Một người có THẤT SÁT không cần phải THẤT SÁT đi với KÌNH HỎA là lửa bốc đầy đầu, đi với THẤT SÁT bị bệnh tăng áp, nếu ĐÀ Hỏa lại thiên về giám, hạ áp. Tật ách cung nhà vua có bộ VIÊT HỒNG gia ĐỊA KIẾP, đại hạn đang hội họp với LOAN chủ máu, chủ hệ tim mạch, VIỆT chủ phát sinh, thái quá,, VIỆT KIẾP chủ phát sinh tai họa... Và năm nay lại có lưu VIỆT HỒNG tụ tập. Hay nói cách khác tại Tật Ách cung đã báo trước bởi bộ VIỆT HỒNG BỆNH PHÙ có KIẾP, năm nay cũng bộ sao ấy Lưu động kích thích bộ cố định làm việc, cũng là lúc đại hạn có bộ sao này. bạn cần đọc kỹ đoạn này. Nhìn bản đồ sao lưu động thấy rất là rõ. Vậy thì nhà Vua bị đứt mạch máu mà chết. Đến Tồn mà không Tại. Bạn có tin khi một hạn TỬ VI xấu dễ bị đứt không nhỉ? Nó không đứt cái này thì đứt cái khác, quan trọng là tìm cho ra cái gì đứt đây, cái gì chết đây.. Không tin tìm ông Nguyễn Thái Học mà hỏi. Bạn có biết, trong nhóm các sao lưu động, có một sao xuất hiện tại Tật Ách, ta có quyền nghi ngờ người ấy bị giết? Bạn nào thử đoán xem. Ta nên quy nạp cách chết của Vua Quang Trung là một hạn tại TUẦN và một hạn tại TRIỆT gặp các sao Lưu cùng tên đồng cung, có TỬ VI ngộ TRIỆT theo tính toán của người viết thì 432 người mới có trường hợp kể trên. Từ đó bạn rút ra một kết luận. So sánh với các trường hợp sẽ gặp khi luận đoán. Như trường hợp nhà Vua bất lợi trước LỘC TỒN lại lưu LỘC TỒN, TỬ VI ngộ TRIỆT lại lưu thêm TRIỆT. Cũng hạn như thế này những sao ưa LỘC TỒN lấy đâu mà chết. Các sao CỰ MÔN, SÁT PHÁ dị ứng với LỘC TỒN các sao còn lại, được kể là không dị ứng. Phần tâm tình Khi đọc bài viết này, người viết tin rằng có ít nhất 2 người tiếp thu nhanh và đánh giá cao tầm quan trọng của sao lưu động. Bạn cũng cần chú ý an KHÔI VIỆT, KHOA tuổi Nhâm cho chính xác. Trước một lá số TỬ VI bạn nên Phân tích như thế này. Nhưng trước hết nên an lá số TỬ VI nho nhỏ thôi, để có cái nhìn tập trung, nên tập an tay cho quen mới mong giỏi được, nếu không chẳng bao giờ giỏi đâu. Nhà nghiên cứu mà chẳng biết LƯU HÀ thuộc nhóm sao nào cũng bày đặt nghiên với cứu.... Tách các chính tinh ra. Đó là nhóm sao nghiệp chướng. Nghiệp chướng của nhà vua là THẤT SÁT. Xem bài THẤT SÁT được và mất, thắng và thua.... Còn lại bộ Can Chi là là tính cách của người đó. trong trường hợp này là bộ ĐẠI THÁI TUẾ, bộ sao này chủ đại chí. Vòng sao còn lại là vòng TRƯỜNG SINH. Các sao còn lại như XƯƠNG KHÚC, Tả Hữu, KHÔNG KIẾP, Kỵ hình... giúp chúng ta quyết đoán. Cũng với THẤT SÁT tại Thân nhưng đí với TIỂU THÁI TUẾ lại là rất tầm thường... Tại đây bạn mới làm quen các bộ VIỆT BỆNH PHÙ, bộ Đại Hổ, Đại Thái... chỉ mới nghe bàn đến lần đầu. Thật ra người viết định viết về bộ PHI VIỆT và các biến dạng của nó, nhưng bị hấp dẫn bởi 1 người thân viết đề tài, nghi vấn lịch sử VŨ KỴ về cái chết của nhà vua. Kỳ tới có thể viết cũng lá số của một người, cũng THẤT SÁT tại Thân bị chết bởi giết, lúc đó bạn sẽ thấy bị giết khác với bị chết dễ phát hiện chứ không có gì khó khăn cả. Tất nhiên là lá số của một nhân vật có tiếng nếu không dễ mang tiếng bịa ra mà nói. Nhưng để hiểu điều đó chúng ta phải bất đắc dĩ tìm hiểu lá số vua Quang Trung. Mời thư giãn với nhạc phẩm MÁI ĐÌNH LÀNG BIỂN của Nguyễn Cường, qua tiếng hát Tùng Dương * KHUYẾT DANH đang cập nhật Địa chỉ đang cập nhật Email đang cập nhật Điện thoại đang cập nhật - Đặng Xuân Xuyến giới thiệu - Nguyễn Bình trước khi vâng lệnh ông Hồ chí Minh vào Nam bộ dĩ nhiên đã được cho biết rõ về tình hình nơi đây. Về quân sự, các giáo phái, các đoàn thể quốc gia vượt mức các tổ chức của Việt Minh vừa mới được vội vàng khai sanh. Hai giáo phái địa phương hùng mạnh là Cao Đài và Hòa Hảo qua chánh sách giai đoạn đều thân Nhật chống Pháp nên được võ trang khá hùng hậu khi Nhựt đầu hàng. Đảng phái thì có Việt Nam Quốc Dân Đảng do Phạm Hữu Đức chỉ huy sau khi Tư Lệnh Đệ Tam sư đoàn Nguyễn Hòa Thiệp về thành. Phạm Hữu Đức là con của một đảng viên VNQDĐ Miền Nam bị lưu đày và bỏ thây tại Côn Đảo. Phạm Hữu Đức, đã từng là nhân viên cao cấp trong Hiến Binh Nhựt, nuôi Trần văn Giàu trong khi Hiến binh Nhựt lùng bắt Giàu. Một sự tình cờ “đặc biệt” đã đưa bộ đội An Điền của Đại Việt Quốc Dân Đảng do Bùi Hữu Phiệt làm Chỉ huy trưởng lên hàng bộ đội hùng mạnh nhất của Kháng chiến Nam bộ thời bấy giờ. Bình Xuyên có thể nói là “Một đảng chính trị” vì “con Rồng Xanh số 1” là Dương văn Dương tức Ba Dương, còn lưỡng lự trước sự lựa chọn con đường chính trị của mình. Ba Dương là con người “độc đáo” tại Miền Nam. Thủ lãnh của Bình Xuyên, đám dân “trốn xâu lậu thuế”, “anh chị đứng bến xe đò hay tầu thủy” chống đối công khai nhà cầm quyền Pháp, người ta hình dung Ba Dương ít lắm cũng cao lớn hơn Mười Trí, nghĩa là ít nhất cao quá 1 thước 75 phân, mặt có “cô hồn” nói năng tục tĩu, và sẵn sàng rút dao tu ra để “giải quyết” mọi chuyện. Ba Dương phải mặc bà ba đen bằng lãnh, đội nón nỉ, quàng khăn lông nơi cổ cho đúng điệu anh chị. Sự thực trái hẳn lại. Ba Dương không cao quá 1 thước 55 phân , nhỏ thó, trắng trẻo, luôn luôn “khăn đóng áo dài đen” như một ông đồ nho. Ba Dương là một ông đồ nho vì theo gia thế học quá nhiều về “tam tự ngũ kinh”, một học vấn mà người Pháp cấm ngặt trong thời đô hộ thuộc địa Nam Kỳ. Thêm một mầu sắc đặc biệt cho Bình Xuyên là Ba Dương chưa hề bao giờ là “anh chị” đứng bến hay “đả hồ” gác sòng bạc. Trái lại Ba Dương là triệu phú chủ nhân ông hai nhà máy xay lúa và một nhà máy dệt bao bố tại Chợ Lớn. Tư Thiên, một trong 10 Rồng Xanh của Bình Xuyên, cũng có nếp sống vương giả như Ba Dương. Tư Thiên, “dân Tây” vì vợ đầm, chỉ “khoái” đua xe đạp, nhưng cũng là chủ nhân ông của hai nhà máy xay lúa tại Chợ Lớn kiêm chủ cả hai “lô” ngựa đua nổi tiếng cho tới thời kỳ kháng chiến. Bình Xuyên phức tạp như vậy. Bình Xuyên càng phức tạp hơn nữa vì là người chỉ huỵ tất cả công nhân tại kho 5 rồi sau đó công nhân đóng tàu cây cho Nhựt, Ba Dương giao thiệp rất thân mật với Nguyễn văn Số, cán bộ cao cấp của Đệ Tứ Quốc Tế có lẽ chỉ vì vấn đề lao động. Ba Dương, trước ngày tàn của Nhựt luôn luôn gặp gỡ Hồ Vĩnh Ký, giám đốc công an Nam Kỳ thời Nhựt và nhất là Lâm Ngọc Đường, Phó giám đốc, những người quốc gia. Như vậy, Ba Dương không thể là con người của Đệ Tam Quốc Tế, nghĩa là thiên hẳn về quốc gia cực đoan như Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường hay Đệ Tứ Quốc Tế theo Nguyễn văn Số. Một trong hai quyết định này đều hoàn toàn bất lọi cho Đệ Tam Quốc Tế. Giáo phái, đảng phái là như vậy. Còn về nhân tâm thì sao? Người dân miền Nam trực tính, bộc lộ rõ ràng rằng “ai đánh Tây thì ủng hộ”. Trước những yếu tố đó, Nguyễn Bình con người cầm trong tay bức thư vạn năng của Hồ chí Minh nghĩ sao ? Những tháng đầu năm 1946 không ai có thể ghi nhận được con đường mà Nguyễn Bình muốn “thênh thang tại Nam Bộ”. Tuy nhiên hành động dưới đây của Nguyễn Bình đã diễn ra quá công khai khiến mọi người sửng sốt cố tìm hiểu Khu trưởng khu 7 là quốc gia thực sự hay âm mưu gì dưới “cái vỏ quốc gia”. Khởi đầu “nhận chức”, Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình đơn thương độc mã tới thăm các lực lượng quân sự đối lập với Cộng sản quốc gia hay Đệ Tứ Quốc Tế đã cùng nhau mặc nhiên cố kết. Cộng sản cũng như Quốc Gia kháng chiến đều dễ dàng hiểu rõ hành động cầu thân này của Nguyễn Bình, nghĩa là có một âm mưu mà chưa tiết lộ. Nhưng “đòn thứ hai” của Nguyễn Bình lại vô cùng kỳ dị gây hoang mang cho cả phía Quốc Gia và Cộng sản. Qua một thông cáo chánh thức của Ủy ban Hành kháng Nam bộ, Nguyễn Bình hạ lệnh cho toàn cõi Miền Nam phải tổ chức lễ truy điệu nhà cách mạng Nguyễn Thái Học. Đối với người dân quê Nam bộ, cái tên Nguyễn Thái Học quả thực là xa xôi, không quen thuộc bằng Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh Tuy nhiên với guồng máy tuyên truyền được huy động tới mức tối đa, người dân tại các vùng hẻo lánh cũng biết rằng Nguyễn Thái Học là một nhà cách mạng, một anh hùng dân tộc. Để đập thẳng vào tâm lý quần chúng còn đương bồng bột với cuộc kháng chiến, các cán bộ tuyên truyền chỉ cần bày ra vài sự việc Nguyễn Thái Học đã đánh Tây nhiều năm, đã giết được nhiều giặc Pháp nhưng sau cùng thất thí bị Pháp đưa lên máy chém tại Yên Báy. Với thành tích đánh Tây giết Pháp, như vậy đủ rồi. Hơn nữa lại nhận được chỉ thị của Nguyễn Bình, từ Tổng hành dinh Nam bộ tới trụ sở của Ủy ban hành chánh xã xa xôi, đâu đâu cũng tổ chức “ngày giỗ vị anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học”. Điều đáng khen Nguyễn Bình là mặc dầu biết rõ là nếu đúng lời ước hẹn từ Tân An về Phú Lâm trong ngày hôm đó, thì chính bản thân mình sẽ bị bắn và liệng xuống giếng cạn chứ không phải là 4 liên lạc viên, nhưng Nguyễn Bình cũng đích thân tới ấp số 4 tham dự lễ truy điệu Nguyễn Thái Học do Phạm Hữu Đức, nhân danh Liên Quân Bình Xuyên tổ chức. Liên Quân Bình Xuyên dành danh dự này cho Phạm Hữu Đức vì Phạm Hữu Đức “cha truyền con nối” là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nguyễn Bình tới dự lễ truy điệu cũng vì lẽ đó. Hơn nữa Nguyễn Bình, mặc dầu là Khu trưởng khu 7, Phạm Hữu Đức chỉ là Tư Lệnh Trung Đoàn 5, cũng dành tất cả danh dự người “chủ tế” cho Tư Đức. Nguyễn Bình không đọc diễn văn, thúc đẩy từ Mười Trí, Bùi Hữu Phiệt hành lễ trước rồi mới niệm hương trước bàn thờ của Nguyễn Thái Học. Hành động này của Nguyễn Bình khiến Phạm Hữu Đức khóc ròng, Mười Trí, Bùi Hữu Phiệt, và những anh em trẻ trong bộ Tham Mưu của Trung Đoàn 25 thắc mắc tự hỏi; “phải chăng Nguyễn Bình, chiếc lá Nguyễn Bình, đã trở về cội ?” Chính sự “phân vân” này của những nhà cách mạng và kháng chiến Quốc Gia, thêm một lần nữa, đã làm cho Miền Nam Việt Nam bao trùm khói lửa cho tới ngày nay ngày mà độc giả đương đọc loạt bài này. Hãy giở ngược lại những trang lịch sử đấu tranh. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhựt đảo chính Pháp. Tại sao lại có đanh từ “đảo chánh” ? Từ năm 1940 viện cớ “mượn đường” đánh Hoa Nam Miền Nam Trung Hoa Dân Quốc quân Nhựt đổ bộ tại Cầu Niệm, chiếc cầu nối liền thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiến An. Rồi từ đó, Nhựt đưa quân lên phía bắc Bắc Việt chiếm Cao Bằng Lạng Sơn, đưa quân xuống Miền Nam, lan tràn khắp Đông Dương tiến đánh Miến Điện, Thái Lan Tuy nhiên, về quyền hành chánh tại Đông Dương, Nhựt vẫn để cho Pháp nắm giữ mặc dầu thực quyền trong tay binh đội Nhựt. Khi Nhựt Hoàng hạ lệnh cho quân đội đầu hàng Đồng Minh, riêng tại miền Nam, các đoàn thể thân Nhựt, như Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Thanh Niên Ái Quốc Đoàn có thể thừa thế nắm chánh quyền nhất là thời kỳ đó, miền Nam đã có một chánh quyền Quốc Gia do ông Nguyễn văn Sâm làm Khâm Sai. Trần văn Giàu, Nguyễn văn Tạo, Dương Bạch Mai, đại diện cho Việt Minh lăm le muốn nắm chánh quyền nhưng còn e dè các đoàn thể Quốc Gia. Những cuộc họp báo Quốc Cộng kẻo dài cả tháng tại Tòa Đô Chánh Saigon. Những cuộc họp riêng giữa các đoàn thể Quốc Gia như Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Bến Tre, Hòa Hảo, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, diễn ra tại biệt thự của bà Nguyễn thị Sương, vợ ông Hồ Vĩnh Ký đương nắm Công an Nam bộ, và đặt dưới quyền của nhà cách mạng lão thành vừa từ Thái Lan về Saigon ông Dương văn Giáo. Các anh em Quốc Gia muốn “một mẻ lưới” bắt hết các đại diện Việt Minh. Ông Dương văn Giáo lưỡng lự cho tới ngày 2-9-45, Việt Minh trình cùng quốc dân thành phần của Ủy ban Hành Chánh Nam bộ gồm toàn các nhân vật Việt Minh hay thân Việt Minh. Ông Dương văn Giáo phải bỏ Saigon lên đường qua Thái Lan nhưng bị chặn giết ở dọc đường. Đó là một cơ hội mà các đoàn thể Quốc Gia vì không dám dứt khoát nên đã bỏ mất chánh quyền tại Miền Nam. Qua lễ truy điệu Nguyễn Thái Học, các đoàn thể Quốc Gia kháng chiến, một lần nữa, lại không có tư tưởng dứt khoát với Nguyễn Bình. Và cũng nhờ lễ truy điệu được tổ chức rầm rộ khắp Nam bộ, Nguyễn Bình đã trấn an được dư luận quần chúng, đã đạt được cảm tình của các đoàn thể Quốc Gia kháng chiến. Nhưng đó chỉ là kế hoãn binh để Nguyễn Bình đủ thì giờ sắp xếp lại nội bộ và thi hành, một vài độc kế. Qua nhiều lần tiếp xúc với Dương văn Dương tức Ba Dương thủ lãnh của Bình Xuyên, Nguyễn Bình hiểu ngay rằng không thể nào mua chuộc, thuyết phục hay áp lực được con người đó. Mua chuộc bằng tiền bạc ? Ba Dương tuy mang danh là Bình Xuyên, nhưng lại là chủ hai nhà máy xay lúa và một nhà máy dệt bao bố tại Chợ Lớn, nay bỏ tất cả để đi kháng chiến “số tiền mua cho được Ba Dương” quá cao, chắc chắn Nguyễn Bình không thể có. Thuyết phục bằng chủ nghĩa Cộng Sản? Ba Dương là con nhà gia giáo, rất giỏi chữ nho giao thiệp nhiều với các cán bộ Đệ Tứ Quốc Tế như Nguyễn văn Số lại trong những ngày đầu của “Việt Nam độc lập” liên lạc chặt chẽ với Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường thì tinh thần Quốc Gia và chống Cộng đã quá bộc lộ. Áp lực một vị thủ lãnh Bình Xuyên ? Lúc đó Nguyễn Bình mặc dầu là Khu trưởng khu 7 cũng không đủ lực lượng quân sự để thi hành ý muốn. Chỉ còn một cách duy nhất là dùng những người trong hàng ngũ Bình Xuyên nhưng không phải “gốc để hạ sát Ba Dương. Và tin Ba Dương bị phi cơ Pháp bắn chết dưới chân một gốc cây rơm tại Bến Tre làm cho chiến sĩ Bình Xuyên đau đớn nhưng gây một mối nghi ngờ rất lớn trong đầu óc anh em trong Liên Quân Bình Xuyên. Sau cuộc điều tra cấp tốc và tại chỗ anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 biết rõ rằng Ba Dương bị ám sát. Ngày tang tóc đó, quả thực có phi cơ Pháp tới bắn phá một làng tại Bến Tre, nơi quân của Ba Dương và Từ văn Ri tức Henri Từ, Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 2 Bình Xuyên trú đóng. Sau hai đợt bắn phá bằng đại liên, chiến đấu cơ “Spicfire” của Pháp bỏ đi. Ba Dương vẫn còn sống. Ba Dương chỉ cần lẩn quanh cây rơm cũng tránh được các loạt đạn đại liên của phi cơ Pháp một cách dễ dàng vì nếu phi cơ từ hướng Đông tới, Ba Dương chỉ cần nằm phía Tây nơi gốc cây rơm hay ngược lại. Sau các chiến đấu cơ, hai thám thính cơ L19 thường được gọi nôm na là “máy bay bà già” và tiếng Bình Xuyên gọi “giường cử” xuất hiện. Ngoài bổn phận thám thính, “bà già” đôi khi cũng gây khó khăn cho kháng chiến quân bằng cách liệng lựu đạn xuống hay bắn bằng Thompson. Hôm đó, thám thính cơ của Pháp cũng bắn nhiều loạt Thompson xuống. Và theo “tin chánh thức” thì Ba Dương bị trúng đạn Thompson mà bỏ mình. Ba Dương nằm sấp, hai tay vươn về phía trước, chân phải gập dưới bụng, chân trái duỗi dài. Như vậy chứng tỏ rằng Ba Dương chạy từ cây rơm này qua mép nơi cây rơm khác thì bị trúng đạn. Từ văn Ri xác nhận rằng lúc đó y núp gần đó, và Ba Dương trúng đạn Thompson khi vừa chạy tới gần chân cây rơm lớn và cao ngất. Chỉ cần coi vết thương anh em trong bộ Tham Mưu của Trung Đoàn 25 cũng rõ Từ văn Ri nói dối, nhưng không dám tiết lộ hết sự thực lúc bấy giờ vì chỉ có vài người được phái tới thăm Ba Dương trước ngày thủ lãnh Bình Xuyên lâm nạn. Lúc đó, Từ văn Ri đang chăm chú quan sát sự nhận xét của anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25. . Lúc đó, Henri Từ chỉ huy cả Trung Đoàn 3,có nghĩa là nếu cần sẽ giết người để bịt miệng. Xem xét vết thương của Ba Dương xong, anh em công nhận những lời của Henri Từ “phải thủ lãnh Bình Xuyên” bị đạn Thompson từ trên “máy bay bà già” bắn trúng. Nhưng sự thực trái hẳn lại Ba Dương bị một viên đạn bắn từ sau gáy trở lên đỉnh đầu nghĩa là Ba Dương bị kẻ nằm ở dưới đất hướng mũi súng lên bắn lén vì nếu từ phi cơ bắn xuống thì trái hẳn lại đạn phải từ đỉnh đầu trở ra phía sau. Anh em còn quả quyết hơn nữa Henri Từ là thủ phạm vì chỉ sau ít ngày Ba Dương từ trần, Từ văn Ri dẫn Trung Đoàn 2 rời khỏi hàng ngũ Bình Xuyên về với Nguyễn Bình. Sau cái chết của Ba Dương và sự rời bỏ hàng ngũ của Henri Từ, Bình Xuyên bắt đầu gặp thêm quá nhiều khó khăn. Và cũng sau cái chết đau thương của Ba Dương, Nguyễn Bình viện cớ quân của Tư Tỵ tan nát tại Bến Tre nên mới “gởi” Tư Tỵ tới nằm vùng tại Trung Đoàn 25 Bình Xuyên để kiểm soát và kiềm chế Bùi Hữu Phiệt. Trăng đêm đó sáng quá. Trời xanh mát cao như vô cùng tận; gió mát của Đồng Tháp Mười thổi vi vút khắp “đảo” Quéo Ba, nơi Trung Đoàn 25 và Trung Đoàn 5 có bổn phận sửa soạn, tiếp đón từ Đức Hùynh Giáo chủ, Tư Lệnh Cao Đài kháng chiến, Trình Minh Thế, Tư Lệnh Sư đoàn 5, đảng viên cao cấp của Đệ Tứ Quốc Tế. Nguyễn Thành Long, vừa được “phái đoàn” của Trung Đoàn 25 rước về, đại diện Tân Dân Chủ Đảng về họp đại hội. Mười Trí, từ ấp số 8 Phú Lâm tới Sáu “Xếch Xông” trước các “phái đoàn khách”. Đối cảnh, Mười Trí hạ lệnh cho “hỏa đầu quân” đặt tiệc rượu thông thường nghĩa là trải chiếu dài trên sàn gạch hay đất nện, để cùng tất cả các anh em cấp bậc chỉ huy đối ẩm. Mười Trí có biệt tài về những cuộc tổ chức ăn nhậu. Sau một cuộc hành quân mệt nhọc ngày, bóng đêm vừa tỏa xuống bộ đội được lệnh phải cấp tốc di chuyển vì sợ ngày mai Pháp theo thông thường sẽ huy động nhiều lực lượng mở cuộc càn quét, tới một nơi hoang vắng, thì cũng chỉ với vài chai rưọu đế mà hỏa đầu quân luôn luôn phải sẵn sàng cung cấp, vài trái ổi chua, ô môi, xoài tượng, tùy theo mùa, hay nhiều lắm vài con vịt, gà, Mười Trí cũng có thể làm cho bữa tiệc vô cùng hào hứng. Mười Trí có biệt tài là pha trộn giữa những sự việc vô cùng quan trọng với sự bông đùa, những việc cần phải đổ máu với tiếu lâm. Mười Trí từng kể cho anh em nghe cuộc đời ngang dọc của mình khi còn là một tướng cướp, theo lệnh các anh lớn “đánh” ngay cả dinh của một viên quận trưởng Pháp ở Phan Thiết vì nhận được tin rằng “tên này” vừa đào được kho tàng đầy vàng của một bà chúa Chàm mang về chất đống tại tư dinh. Mười Trí đã thành công trong nhiệm vụ cùng với anh em Bình Xuyên khác, nhưng bi rượt nà, giữa đường rút lui về Nam, nơi các vùng chỉ có đồng bào sơn dã, đã phải đổi cả một rổ vàng để lấy một rổ cơm. Mười Trí cười lớn – Trong đời “qua” chưa hề bao giờ đánh cướp vụ nào mà không đoạt được dưới đồng. Hai ngàn thời trước 1940 bằng 2 triệu thời nay. Tiền này nạp vào “quỹ” để mua ruộng cho dân làng Bình Xuyên. “qua” được thưởng nhiều nhất là 200 đồng. Một lần “qua” đánh xong một vụ, dám chấp cả Catinat Công an Pháp, trụ sở tại bộ Nội Vụ đường Catinat tức Tự Do bây giờ tìm kiếm “qua” không nổi. Vậy mà các em biết không… Mười Trí uống hớp rượu lớn, đưa mắt nhìn quanh – Các em biết “qua” muốn nói gì không ? Một anh em dí dỏm đáp – Ồ, chỉ có chị Mười, mới biết anh muốn gì. Mười Trí đập đùi cười lớn – Em thực giỏi. Phải, chỉ có má con Liên con gái út của Mười Trí mới biết “qua” muốn gì. Mười Trí thấp giọng – Nói thực với các em, sau mỗi vụ cướp lớn, “qua” về Bình Xuyên nằm nghỉ ngơi, Catinat không cách nào tìm bắt được, “qua” không về Bình Xuyên, ở nơi khác thì Catinat cũng thua. Nhưng điều này thực lạ, khi “qua” có mèo, trốn còn kỹ hơn sau vụ ăn cướp, thì hai ngày sau là má con Liên đã bắt được “qua” tại trận. Sao kỳ vậy? Mọi người phá lên cười. Mười Trí không hiểu thực hay mua vui câu chưyện, điều đó không chút quan trọng vì ai cũng hiểu rằng giới chỉ huy Bình Xuyên có những nguyên tắc đã định là không thể cho đàn bà lung lạc hay chia rẽ anh em. Mười Trí có mèo, trốn nơi đâu thì cũng trong vòng tai mắt của anh em Bình Xuyên. Tức khắc họ ngầm báo cho “má con Liên” biết nên Catinat thua má con Liên ở chỗ đó. Những “thỏa hiệp” trên của Bình Xuyên còn thể hiện qua một chuyện được coi là ly kỳ và độc đáo giữa Mười Trí và Bảy Viễn trong thời kỳ kháng chiến. Bữa đó, Mười Trí từ Phú Lâm về Bình Xuyên thăm Bảy Viễn đã lãnh chức Khu phó khu 7, Phó Tư Lệnh quân đội Bình Xuyên. Mười Trí mặc bà ba đen, như mọi người kháng chiến, cùng vài cận vệ tới nơi được coi là “tư dinh” của Bảy Viễn. Cuộc đi bộ cũng hơi xa, mặt mũi Mười Trí lem luốc, nhưng cũng tiến thẳng tới tư dinh của Bảy Viễn gõ cửa. Một thiếu phụ vừa quá 20 tuổi rất đẹp từ trong nhà ra mở cửa Mười Trí – Thưa chị, thằng Bảy có nhà không ? Thiếu phụ quắc mắc nạt – Chú biết tôi là ai không? Mà chú là ai mà dám hỏi Khu phó một cách xách mé như vậy ? Lẽ cố nhiên Mười Trí khi “thưa chị” đã biết thiếu phụ này là vợ nhỏ của Bảy Viễn, nhưng trước những lời sỗ sàng, liền hạ lệnh cho các cận vệ rút lui, không một lời giải thích. Chiều về, Bảy Viễn được cô vợ nhỏ kể lại tự sự, Bảy Viễn hoảng kinh tức tốc đi tìm Mười Trí thì trong khi đó Mười Trí là cao cấp hơn Bảy Viễn, hạ lệnh cho chính lính của Bảy Viễn bắt “người đàn bà đó” đưa ra rạch xử tử. Khi đôi bên gặp nhau, Mười Trí chỉ cần giải thích một câu thực vắn tắt – Người đàn bà kênh kiệu, chua ngoa như vậy không được, vì sẽ làm mất lòng anh em. Khi anh em đã mất lòng, đại sự phải thất bác. Bảy Viễn nhận thấy những lời phê bình của Mười Trí là đúng. Giới anh chị Bình Xuyên trọng vọng người đàn bà hơn tay anh chị dao búa trong “đảng” vì biết rằng nếu người đàn bà có thực thâm đảm đang lo liệu cho gia đình, cho con cái thì “chiến sĩ” mới dám xông pha, vào tù ra khám cũng chẳng chút bận tâm. Tuy nhiên, người vợ mới quá trẻ đẹp khiến Bảy Viễn đêm đó nằm trên bộ ván bên cạnh Mười Trí, thở dài não nề. – Bảy, bộ mày tiếc của lắm sao? Bảy Viễn cũng không dằn được, trả lời bậm trợn – mày hạ lệnh giết nó rồi, tao không phản đối một câu, bây giờ tao… thở dài mày cũng cấm đoán sao ? Mười Trí cười xòa cho êm chuyện. Tinh thần của những con Rồng Xanh, tức là các cấp lãnh đạo Bình Xuyên là như vậy nên muốn lũng đoạn cả khối này, Nguyễn Bình phải nhờ tay Từ văn Ri tức Henri Từ ám sát Ba Dương, người thủ lãnh mà bất luận.. con Rồng Xanh nào cũng kính nể, cũng không dám phản đối khi Ba Dương đã quyết định một việc gì. Toàn thể Bình Xuyên đưa Dương văn Hà, tức Năm Hà, em ruột của Ba Dương lên chức thủ lãnh. Năm Hà, tuy học cao hơn Ba Dương nghĩa là có theo học nhiều năm các trường công lập nhưng thua xa người anh ruột về đủ mọi phương diện, từ sự thông minh, quán xuyến thâm thúy, quyết định đến cả võ nghệ. Điều đó không có gì lạ vì Năm Hà tuy cũng là 1 trong 10 con Rồng Xanh của Bình Xuyên nhưng thông thường núp dưới nanh vuốt của người anh hơn là tung hoành gây thành tích cá nhân cho mình. Sự thực trừ những người thân tín nhất ra, chưa ai biết rõ về võ nghệ của Ba Dương cao tới mức độ nào. Tuy nhiên trong giới võ nghệ miền Nam, người ta còn truyền tụng vụ “đụng độ” hi hữu giữa Ba Dương và Sáu Cường. Sáu Cường nổi tiếng trong “giới võ lâm” về thế liên châu nghĩa là tung chân phải lên đá chưa dứt đòn thì không cần phải có điểm tựa, không cần chân phải chấm đất, đã có thể phóng chân trái lên đá tiếp và cứ như vậy, liên miên như bất tận, cho tới khi hạ được địch thủ. Sáu Cường vừa đả lôi đài tại Chợ Lớn, lãnh chức vô địch Nam Kỳ. Không rõ ai đã nói gì, mà sau ngày “vinh quang” đó, Sáu Cường đơn thương độc mã, tới quán nhỏ trên đường từ Chợ lớn về nhà riêng của Ba Dương mà chờ đợi. Sau công việc chỉ huy tại nhà máy xay lúa, Ba Dương nhỏ thó, không cao quá 1 thước 60 phân, như một ông đồ nho, khăn đóng, áo dài đen, dù cắp trên tay thủng thẳng về nhà. Đã từng nghe danh, nhưng chưa hề gặp mặt, Sáu Cường ngạc nhiên khi được dân nhậu trong quán cho biết… anh đồ nho đó là Ba Dương; nhưng cũng vội vàng rời quán, tiến tới, lễ phép – Thưa ông Ba xưng hô vô cùng kính trọng vì Ba Dương và Sáu Cường tuổi xấp xỉ ngang nhau tôi là Sáu Cường… Ba Dương mỉm cười niềm nở đáp – À ra Thầy Sáu cách xưng hô này đã hơi trịch thượng so với câu chào của Sáu Cường. Tôi mừng cho Thầy vừa đoạt cbức vô địch. Sáu Cường hài lòng vì tin tức được loan truyền rất mau và chứng tỏ Ba Dương cũng đặc biệt chú ý tới mình, nên nhũn nhặn đáp – Thưa điều đó có gì quan trọng. Tôi muốn gặp ông Ba để xin một điều. – Thầy Sáu đừng khiêm tốn. Điều gì cứ việc nói. – Tôi muốn được ông Ba chỉ giáo một chút về võ nghệ. Ngày nào ông Ba cho phép… “Chỉ giáo” là danh từ khiêm nhượng không dấu được ý của Sáu Cường muốn giao đấu cùng Ba Dương. Ba Dương đưa mắt nhận xét Sáu Cường. Nếu phải là hai võ sĩ quyền Anh thượng đài thì không bao giờ ban tổ chức cho “cáp độ” giữa hai người này. Sáu Cường ít lắm cũng cao hơn Ba Dương 10 phân cân nặng hơn ít lắm 20 ký. Ba Dương như không nhận thấy sự chênh lệch về bề ngoài, dịu dàng đáp – Ồ ngày nào cũng được, ngay bây giờ cũng được. Mình “học hỏi” cùng nhau, có điều gì quan trọng đâu. Sáu Cường tuy ngạc nhiên nhưng trước những cặp mắt tò mò của đông người trong quán, vội trút bỏ nón nỉ, khăn bông quàng cổ, áo bành tô, cột chặt ống quần, thắt lại dây giầy gọn gàng theo ý muốn rồi nhẩy ra khoảng trống trước quán. Thêm một lần nữa, Sáu Cường ngạc nhiên khi thấy Ba Dương vẫn khăn đóng, áo dài và giữ nguyên chiếc dù trên tay – Ông Ba không sửa soạn… – Tôi sửa soạn rồi Thầy Sáu… bắt đầu đi. Giọng nói của Ba Dương thực hiền hòa, nhưng ý nghĩa câu nói lại vô cùng trịch thượng khiến Sáu Cường, mặc dầu có e dè tói đâu, cũng chỉ còn cố gắng gượng nói câu khách sáo – Vậy, tôi xin phép ông Ba. Khoảng cách giữa hai đối thủ hơn 6 thước. Sáu Cường nhún mình nhảy liên tiếp ba lần nhưng khi vừa đúng tâm mức để thi thố thế cước liên châu thì Ba Dương tung chân đá gió khiến Sáu Cường trở lại vị trí cũ. Sáu Cường bàng hoàng nhưng vẫn tưởng rằng sự thất thế của anh là do háo thắng của chính mình nên mới tạo cho đối phương cơ hội phản công. Lần này Sáu Cường thận trọng hơn nhưng kết quả cũng không hơn gì lần trước. Và thất bại lần thứ ba, Ba Dương vẫn trong tư thế nho nhã của một ông đồ, Sáu Ctrờng chợt hiểu nên vội vòng tay thi lễ – Cám ơn ông Ba đã tha chết hay ít lắm cũng đánh tôi bị thương. – Có gì mà Thầy Sáu quá lời như vậy? Sáu Cường lỗ mãng tới đâu chăng nữa, nhưng là con nhà võ, nên hiểu ngay các khuyết điểm của mình. – Ông Ba thương nên chỉ đá gió đã khiến tôi phải bật lại phía sau. Nếu ông Ba muốn gia hại, chỉ cần chờ tôi tiến sát tới thêm nửa thước nữa thì cái đá của ông Ba chắc chắn làm tôi bị thương, còn muốn giết tôi thì ông Ba chỉ cần chờ tôi tung cước mới đá theo. Ba Dương cười xòa – Thầy Sáu nhận xét tinh vi, lãnh chức vô địch Nam Kỳ quả thực xứng đáng. Từ đó Sáu Cường rất kính trọng Ba Dương và Ba Dương cũng coi Sáu Cường như kẻ đáng mến vì thẳng thắn và biết người biết ta. Con người đặc biệt của Ba Dương là như vậy anh hùng cá nhân tới tuyệt độ, nhưng lại là thủ lãnh của một khối kháng chiến đương quá mạnh về vũ khí cũng như tinh thần Nguyễn Bình mặc dầu là đảng viên Cộng sản nhưng đôi khi bản chất Quốc Dân đảng cũng “chợt thức giấc” anh hùng cá nhân tính vùng lên lại đứng trong tình thế “có tướng không có quân” thì việc thèm khát địa vị của của Ba Dương hay ít lắm cũng tìm đủ mọi cách hạ cho được Ba Dương để thực hiện ý đồ của mình là sự dĩ nhiên. Song song với sự ám sát Ba Dương, Nguyễn Bình tìm đủ mọi cách triệt hạ những lãnh tụ có ảnh hưởng trong Liên Quân Bình Xuyên. Năm Hà được anh em Bình Xuyên tôn lên chức Tư Lịnh, không làm cho Nguyễn Bình lo ngại. Năm Hà, tuy là một trong 10 con Rồng Xanh Bình Xuyên mười người chỉ huy Bình Xuyên nhưng tính tình ôn hoà, dễ dãi đôi khi có thể nói rằng mềm yếu đối với anh em, không sâu sắc, thông minh và quyết liệt như Ba Dương, nên Nguyễn Bình không mấy quan tâm. Tuy nhiên Nguyễn Bình luôn luôn phòng xa vì sợ “nó lú chú nó khôn” nên xếp đặt màng lưới nhện rất tinh vi tại Bình Xuyên. Bảy Viễn chỉ là Tư Lịnh Trung đoàn 2 Bình Xuyên trước khi nhường quyền cho Từ văn Ri tức Henri Từ được Khu trưởng Nguyễn Bình nâng lên làm Khu phó khu 7. Với sự cất nhắc Bảy Viễn lên địa vị này, Nguyễn Bình đã gây sự mâu thuẫn ngấm ngầm và trầm trọng trong hàng ngũ Bình Xuyên. Trên thực tế, Bảy Viễn chỉ là Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 2, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Năm Hà, Tư Lịnh Bình Xuyên. Theo “thứ bực Rồng Xanh” Bảy Viễn còn dưới cả Mười Trí vì đứng hàng thứ 9 nhưng với địa vị mà Nguyễn Bình vừa phong cho, Bảy Viễn trên giấy tờ, còn chỉ huy cả Năm Hà và Mười Trí. Bảy Viễn rất hãnh diện với địa vị cao mới nên đã không ngần ngại trao quyền chỉ huy Trung Đoàn 2 cho Từ văn Ri, một người dân Pháp, theo kháng chiến về đầu hàng Bình Xuyên, nhưng không phải là “gốc Bình Xuyên”. Hành động của Bảy Viễn làm cho Bình Xuyên lo ngại vì đã bộc lộ quá rõ ràng rằng Bảy Viễn muốn thoát khỏi sự chỉ huy của Bình Xuyên để đứng lên chỉ huy ngược lại anh em cũ. Tuy nhiên bên cạnh Năm Hà còn có những con Rồng Xanh khác như Tư Tỵ, Bảy Nam, Sáu Lào và “con Ly”, dưới cấp Long là Rồng vì Bình Xuyên tổ chức, đặt địa vị anh em theo Tứ Quý Long, Ly, Quy, Phượng. Dữ tợn nhất là Tư Ý, triệt để tuân theo mệnh lệnh và giúp đỡ nên Bảy Viễn e ngại chưa dám có hành động gì cụ thể chèn ép Năm Hà. Nguyễn Bình biết rõ điều đó nên giúp tay cho Bảy Viễn, một lần nữa, phân tán thế lực từ “gốc Bình Xuyên”. —>Xem tiếp Pages 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cách đây hai tháng, Sáu “Xếch xông”… mang “mỹ hiệu” này vì trước thời kháng chiến, làm tiểu đội trưởng Chef de Section cho Pháp đại diện cho Mười Trí, đi dự phiên họp quân sự khu 7. Khi trở về Ấp số 8, Phú Lâm nơi Trung Đoàn 4 đồn binh, sáu “Xếch xông” không dấu nổi sự băn khoăn, vui mừng lẫn lộn, khiến Mười Trí kéo vào phòng riêng hỏi – Sáu à có chuyện gì vậy mày ? – Thưa anh lớn… – Với tao như anh ruột màv, chuyện gì mày cũng có thể nói thiệt được. Điều này, sáu “Xếch xông” công nhận nên lưỡng lự một chút rồi nói rõ – Thưa anh lớn, cuộc họp tại khu bộ chẳng có gì quan trọng. Không hiểu sao Khu trưởng biệt đãi em. Cuộc họp chấm dứt, Khu trưởng lưu em lại một ngày để… nói chuyện. Mười Trí tánh nết nóng như lửa, ngắt ngang – Mà chuyện gì chứ? Sao mày ấp úng hoài ? – Thưa anh lớn, Khu trưởng đề nghị với em tìm bắt bộ chỉ huy của Trung Đoàn 25 giao cho Khu trưởng. Xong việc… Mười Trí đập bàn quát – Sao mầy không bắn vào đầu nó ? Mầy dư biết rằng tất cả anh em chỉ huy Trung Đoàn 25 là đảng viên Đại Việt, là đồng chí với tao mà! – Dạ, thưa anh lớn em biết nên mói không dám nhận lời. Mười Trí dịu giọng – Hay lắm, kể lại tao nghe tất cả những gì Nguyễn Bình đã nói với mày. – Thưa anh lớn, Khu trưởng nói rằng sau khi bắt hết bộ chỉ huy của Trung Đoàn 25 rồi em sẽ được thưởng đồng và tức khắc Khu trưởng phong cho em làm Tư lịnh Trung Đoàn đó, Khu trưởng có cho em, trước khi ra về, một khẩu “ngựa bay” và đồng gọilà… đặt cọc. Hôm nào em quyết định, Khu trưởng sẽ trao nốt số tiền còn lại… Hai mươi ngàn đồng, số tiền không phải nhỏ vì “lương” của một người lính kháng chiến, mỗi tháng chỉ là 60 đồng nếu bộ chỉ huy có tiền. Mười Trí hỏi tiếp – Ngày nào mày phải trả lời dứt khoát? – Thưa, đúng một tuần, trong kỳ họp quân sự lần thứ hai tại khu bộ. – Thôi được. Đừng nói cho bất luận ai biết. Tao cần đi gặp Bùi Hữu Phiệt gấp. Sáu “Xếch xông” la lên – Thưa anh lớn. – Yên chí. Có tao đây anh em Đại Việt không ai bắn mày đâu mà sợ… Và nếu bắn, thì chính tao đã bắn mày rồi. Mười Trí vội vã qua Ấp số 4, nơi Trung Đoàn 25 và 5 đồn binh, chỉ cách Ấp số 8 có con lộ trải nhựa. Sự qua lại giữa hai ấp, từ cấp chi huy đến binh sĩ là chuyện thông thường nên lính canh bồng súng chào mà không chút ngạc nhiên trước sự xuất hiện của Mười Trí. Mười Trí đi thẳng tới Tổng hành dinh của Trung Đoàn 25, đưa mắt nhìn mọi người đương làm việc rồi nói. – Các em. Qua có chuyện riêng muốn nói với anh Phiệt vài phút. Mười Trí nói với Bùi Hữu Phiệt bằng giọng ỡm ờ – Anh Phiệt, dạo này có nhiều tiền xài không ? Bùi Hữu Phiệt lắc đầu – Tháng này các anh em ở thành chưa cho người tới tiếp tế. Trưng đoàn 25 tức bộ đội An Điền đặt dười quyền chỉ huy của Đại Việt Quốc Dân Đảng Xứ Bộ Nam Việt, nên thường được Đảng tiếp tế tiền bạc và vũ khí. Mười Trí vẫn giọng cười đùa cợt – Tôi cho anh đồng, chịu không ? Bùi Hữu Phiệt ngạc nhiên trước số tiền lớn lao, trố mắt hỏi lại – Thiệt không ? Tiền đâu mà anh Mười có nhiều vậy ? Trung Đoàn 25 liên minh với Bình Xuyên và mang danh là của Bình Xuyên nên sự trợ giúp lẫn nhau là chuyện thông thường. Mười Trí cười. – Thiệt chứ. Đó là phân nửa số tiền tôi bán cái đầu anh cho Nguyễn Bình. Chờ cho Bùi Hữu Phiệt đã “tỉnh trí” Mười Trí mới kể rõ đề nghị của Khu trưởng Nguyễn Bình với Sáu “Xếch xông”. Bùi Hữu Phiệt trầm ngâm – Bây giờ anh Mười tính sao ? Giọng nói của Mười Trí trở lại vô cùng nghiêm nghị – Mình tương kế tựu kế. Tôi cứ sai thằng Sáu đi họp khu bộ kỳ tới, nhận lòi với Nguyễn Bình, lãnh tiền về rồi tụi mình chia đôi. – Như vậy không ổn. Nguyễn Bình bị lừa sẽ căm giận Sáu “Xếch xôn” sẽ trút tất cả thù hận lên đầu anh. – Tụi mình sợ gì ? Với Trung Đoàn 2,3, 4, 5 và 25 Bình Xuyên cộng thêm với anh em Cao Đài và Hòa Hảo kháng chiến,dư sức “ăn chung” đủ với Nguyễn Bình. – Nhưng mối thù hận sẽ kéo dài và cuộc thanh toán giữa kháng chiến với kháng chiến chẳng ích lợi gì cho đất nước. Mười Trí gật đầu tán thành – Đúng. Vậy anh có kế hoạch gì khác không? Bùi Hữu Phiệt đảo mắt nhìn quanh như sợ “vách có tai” rồi mới nói nhỏ cho Mười Trí ra kế hoạch của mình. Mười Trí mừng rỡ lộ trên nét mặt – Đúng đúng. Nhổ cỏ phải nhổ tận rễ. Nhưng tại sao anh phải di binh ? Và tại sao lại phải cần tới Trình Minh Thế ? Bùi Hữu Phiệt giải thích – Ấp số 4 quá gần Saigon lại là “Tổng hành dinh” của anh, ” con mồi” chưa chắc gì dám tới, mà nếu có tới thì những gì xảy ra, anh lãnh đủ hậu quả. – Còn việc nhờ tới Trình Minh Thế ? – Đó là đòn “hư hư thực thực”. Trên phương điện công khai Cao Đài Kháng chiến lãnh hậu quả của vụ này, nhưng anh Thế đồn binh tại Dòng Lớn sát với Cao Miên, biên thùy một cõi, thì có thể bất chấp những gì xảy ra sau “vụ đó”. Một điều hợp lý hơn nữa là cả Nam bộ, ai cũng biết Nguyễn Bình và Trình Minh Thế có mối thù không đội trời chung. Mười Trí vỗ tay cười – Hợp lý. Nhưng ngày nào anh di binh? Bùi Hữu Phiệt cũng cười – Ngày mai anh Mười triệu tập một cuộc họp quân sự giữa Trung Đoàn 4, 5 và 25 đi. Anh đề nghị đánh Chợ Lớn. Tôi và anh Phạm Văn Đực phản đối đề nghị này. Chúng mình công khai công kích nhau, tôi gây sự bất hòa. Sau đó, tôi hạ lệnh di binh ngay, anh Đức cũng tách rời khỏi khu vực Phú Lâm. – Nhưng nếu anh Đức cùng đi với anh… – Anh Đức sẽ đi sau tôi một ngày và không đồn binh cùng một chỗ… Một lần nữa Mười Trí cười lớn – Tư Đức đồn binh ở địa điểm có thể tương trợ anh nếu Nguyễn Bình đưa quân của thằng Lê Hồng Giỏi, Huỳnh Tấn Chùa, Đao sơn Tây tới tấn công bộ đội anh chứ gì? – Dạ phải. – Thế còn vụ Trình Minh Thế ? – Tôi sẽ cho liên lạc ngay. Anh Thế gặp tôi ở nơi đồn binh mới. Mười Trí vui vẻ đứng dậy muốn ra về. Bùi Hữu Phiệt nói đùa – Anh Mười nhớ cho người mang đồng bán đầu tôi tới địa điểm mói nghe ? Cuộc họp quân sự tại ấp số 8 Phú Lâm nổi sóng. Lần đầu tiên Phạm Hữu Đức và Bùi Hữu Phiệt lớn tiếng công khai chỉ trích quyết định đưa quân tấn công Chợ Lớn của Mười Trí. Mười Trí, bằng những “danh từ Bình Xuyên” đã mạt sát Bùi Hữu Phiệt và Phạm Hữu Đức là thỏ đế. – Vậy mà cũng Tư lịnh này Tư lịnh nọ, cầm quân kháng chiến. Bùi Hữu Phiệt và Tư Đức giận dữ bỏ phòng họp đi thẳng một mạch về ấp số 4. Tấn tuồng họ đóng khéo léo tới mức không một ai nghi ngờ. Tư lệnh Trung Đoàn 25 hạ lệnh, chập tối hôm đó, phải cấp tốc di binh. Lưu Nhất tức Tiến,chỉ huy quân sự ngăn cản – Anh Sáu Bùi hữu Phiệt nóng quá. Để thủng thẳng bàn luận với anh Mười xem sao ? Sáu Phiệt cười lạnh lẽo – Thảo luận gì nữa ? Nội đêm nay anh Mười đưa quân đánh Chợ Lớn hay ít lắm cũng đánh Phú Lâm, thì sáng sớm mai Tây nó sẽ trả đũa, chúng mình ở đây hứng lấy cái chết hay sao ? Trung Đoàn 25 Bình Xuyên nhổ trại trước sự luyến tiếc của anh em chiến sĩ trong Liên Minh. Khuya đêm đó, họ tới nơi đồn binh đã dịnh, bến Lò Đường tại Vàm Cỏ Đông. Lưu Nhất tức Tiến mừng rỡ vì nơi đây là chỗ đồn binh lý tưởng. Lẽ cố nhiên, vì chiến thuật di động cần thiết cho du kích chiến, Bộ Tham Mưu đã phải định trước những địa điểm di và đồn binh, nhưng nơi vừa tới thực quá “đẹp”. Về đường bộ, nếu địch quân tới phải băng qua một cánh đồng rộng mênh mông và trơ trụi không thể nào lọt khỏi con mắt quan sát của tình báo hay tiền đồn. Về đường thủy, địch quân phải đi dọc theo sông Vàm Cỏ Đông, đổ bộ nơi bến Lò Đường cũng quá lộ liễu đối với tình báo, liên lạc viên của Trung Đoàn tung ra khắp nơi. Hơn nữa, bộ Tổng Tham Mưu được đặt tại căn nhà lớn, cách bến Lò Đường cả gần cây số ngàn. Muốn tới bộ Tổng Tham Mưu người ta phải băng qua nhiều khu đất trống, nhà cửa thưa thớt rồi cuối cùng vượt cây cầu gỗ khá lớn bắt ngang rạch mới tới tiền đồn của bộ Tổng Tham Mưu . Điểm đắc lợi nhất nơi đây là binh đội được đóng thành hình chữ I tại các căn nhà dọc theo bờ sông sình lầy, đầy dừa nước, số còn lại đồn trú nơi nội địa hình cánh cung. Như vậy dầu bị tấn công thì Trung Đoàn 25 cũng dư điều kiện thuận lợi để kháng chiến, có thua thì cùng đủ “đất” để rút lui một cách an toàn. Bùi Hữu Phiệt gọi vị chỉ huy quân sự tới – Anh cho liên lạc đi mời gấp Trình Minh Thế. – Thưa anh lớn… – Tôi đã thỏa thuận với anh Tư Đức về vấn đề tương trợ phía Nam nhưng còn phía Bắc cần anh Thế. Lưu Nhất cãi – Thưa anh Tư lịnh, phía Nam hay Bắc mà bị địch tấn công, với địa thế này, Trung Đoàn chúng ta cũng đủ sức tự vệ. Sáu Phiệt dịu đàng, một điều ít khi có trong những cuộc thảo luận với thuộc cấp – Tôi cũng biết vậy. Anh Tư Đức và anh Thế cũng là liên minh với tụi mình thì tính toán thế chân vạc tương trợ lẫn nhau vẫn hơn là tự mình phải đảm đương hết mọi chuyện. – Dạ đúng. Sáu Phiệt vẫn chưa muốn cho Lưu Nhất biết rõ bí mật đương được “dệt thành màng lưới ” nên đáp – Tấn mà thắng là điều mong muốn nhưng lúc nào tôi cũng nghĩ tới cái thoái an toàn của anh em. Lưu Nhất công nhận – Thưa anh lớn, tôi sẽ phái liên lạc đi ngay. Anh lớn có cần biên thư… – Khỏi cần. Liên lạc nói với anh Thế rằng “việc cay đắng” là đủ. Đó là mật hiệu giữa các vị Tư lịnh trong Liên Quân Quốc Gia Kháng Chiến miền Nam. Nhận được “mệnh lệnh tối khẩn ” Trình Minh Thế tức tốc tới bến Lò Đường. Bùi Hữu Phiệt hơi ngại vì Trình Minh Thế đem theo một tiểu đội cận vệ trong đó có cả Tư lệnh phó Cao Đài kháng chiến tên Luyến. Luyến nhiều tuổi hơn Thế nhưng lại nóng nảy, luôn luôn đeo trên vai khẩu súng trường của kỵ binh Nhựt. Luyến là tay thiện xạ, trong vòng 100 thước, chưa hề bắn phát nào không trúng đích. Nhiều người ngạc nhiên vì địa vị cao mà còn mang súng trường thì Luyến đáp – Nói thiệt với các anh, đi đường xa, thấy “cái gì” khả nghi trong 200 thước trở lại, với cây súng này, nếu tôi không bắn chết thì cũng làm “nó” bị thương. Trò chơi ưa thích nhất của Luyến là khi bắt được các cán bộ Việt Minh, sau cuộc điều tra, trói địch dưới gốc cây rồi tuyên án – Mày VM hạng nhẹ, tao bắn cháy tóc. Mày VM cỡ trung tao “xin” một tay. Mày nặng quá rồi, đạn phải ghim giữa trán. Không bao giờ “bản án đã tuyên” lại bị truyền thi hành sai lệch. Như hiểu ý Bùi Hữu Phiệt, Trình Minh Thế nói – Tôi có một chuyện rất khó, nói riêng với mình anh được không? Bùi Hữu Phiệt nhận lời ngay. Như vậy cuộc gặp gỡ tay đôi do khách đề nghị. Trung Đoàn 25 không còn lo đã tỏ ra coi khách kẻ trọng người khinh Khi chỉ còn hai người đối điện. Bùi Hữu Phiệt, kể tỉ mỉ về đề nghị của Nguyễn Bình với Sáu ” Xếch xông “, về mưu tính của Mười Trí và luôn cả tấn tuồng cãi lộn ở ấp số 8 Phú Lâm – Anh đảm nhiệm được vai trò quyết định đó không ? Trình Minh Thế trả lời ngay – Lẽ cố nhiên là được nhưng tại sao các anh dành cho chúng tôi ? – Điều đó cũng dễ hiểu. Nếu có sự nhúng tay lộ liễu của anh Mười Trí thì toàn thể Bình Xuyên sẽ lâm nguy vì địa điểm đồn binh của Bình Xuyên dễ bị tấn công. Hơn nữa, anh Mười không phải là Tư lệnh của toàn thể Bình Xuyên. Hậu quả xảy ra, Năm Hà, Sáu Đời, Tư Tỵ, Bảy Viễn có thể trách cứ anh Mười gây xáo trộn nội bộ. Trình Minh Thế gật đầu – Điều đó đúng, nhưng Sáu “Xếch xông”… – Anh Mười có thể đổ quấy rằng Sáu “Xếch xông” phản Trung Đoàn 4 Bình Xuyên. Trình Minh Thế mỉm cười, đăm đăm nhìn Bùi Hữu Phiệt – Sao các anh không tự giải quyết vụ nầy, nhất là Nguyễn Bình đã muốn “lấy đầu anh”? Tôi đã dự cuộc thi bắn có mặt cả Nguyễn Bình, các em của anh bắn còn chính xác hơn người khác ? – Đúng vậy, nhưng công khai, Nguyễn Bình chưa hề có điều gì thất thố với chúng tôi, trái lại bề ngoài lúc nào”Khu trưởng” cũng ưu ái. Trình Minh Thế phá lên cười – Mặc dầu chính các em anh đã một lần mưu sát Khu trưởng ? Bùi Hữu Phiệt thở dài – Phải, nhưng tất cả sự việc đó đều trong vòng bí mật mà chỉ chúng ta biết với nhau. Trình Minh Thế mơ màng – Tôi hoàn toàn tán thành vụ này nhưng tôi khó mà đích thân… Bùi Hữu Phiệt qua cuộc thi bắn đã biết rằng Trình Minh Thế rất giỏi về chỉ huy quân sự, nhưng tài súng sáu lại tầm thường, nên đáp – Tôi “biếu” anh một tay xạ thủ cừ khôi…. Như chợt nghĩ ra, Trình Minh Thế reo lên – Không cần. Tôi cũng có “quan dưới trướng” đáng mặt.. anh hùng. Bùi Hữu Phiệt nghiêm nghị – Anh hơn chúng tôi ở chỗ biên thùy một cõi. Vụ này vì đại cuộc. Trình Minh Thế ngắt lời – Tôi đã bằng lòng rồi mà. Một liên lạc của tôi sẽ để… anh nuôi cơm. Khi cần tức tốc nó về báo cáo. Anh tin đi, tôi xếp đặt mọi chuyện thực chu đáo. Nhưng một tuần sau cuộc thảo luận giữa Bùi Hữu Phiệt và Trình Minh Thế trôi qua, nước sông Vàm Cỏ vẫn êm dịu chảy, mây trắng vẫn bay mà chưa có tin của Mười Trí. Mười giờ sáng hôm đó, hai chiếc xuồng ba lá, dài và to hơn xuồng thông thường, cặp bến Lò Đường. Hơn một tiểu đội, đội nón lá lụp xụp, mặc tuyền bà ba đen, võ trang tiểu liên lăm lăm trên tay trừ hai người chỉ huy đeo súng lục, vội vã bước lên bờ. Người đi đầu bỏ nón lá ra, vẫy vẫy như chào những người lính gác vọng đầu và được kính cẩn chào lại vì người đó là Sáu “Xếch xông” quá quen thuộc với anh em Trung Đoàn 25. Đoàn người tiến mau vào nội địa. Còn cách cây cầu vài trăm thước, Sáu “Xếch xông ” quay lại nói nhỏ với người đeo súng lục. Người này gật đầu, bỏ hàng ngũ, một mình tiến vào tòa Miếu hoang gần đó. Sáu “Xếch xông” tiếp tục hướng dẫn tiểu đội tiểu liên nhắm hướng cầu thẳng tiến. Người ở lại đã vào trong Miếu, bỏ nón lá xuống. Y cao lớn, đeo cặp kiếng đặc biệt nửa trên màu đen thẳm, nửa dưới màu xanh nhạt. Khẩu súng đeo bên hông của y cũng khác thường, khẩu Wicker, nòng quá dài, khẩu súng tùy thân của những người săn sư tử bên Phi Châu. Y đảo mắt nhìn quanh, rồi như linh tính báo động, quay ngoắt lại – Anh là ai ? Kẻ mới xuất hiện nơi ngưỡng cửa Miếu, cũng mặc bà ba đen nhưng không đội nón lá, và tay cầm khẩu Colt 11,45 lễ phép đáp – Thưa Khu trưởng… – Anh biết tôi ? Anh đến đây làm gì ? – Thưa Khu trưởng, vâng lệnh các anh lớn trong Liên Minh Quốc Gia Kháng Chiến, và của anh Tư lệnh tôi…. Nguyễn Bình ngắt lời – À tôi nhớ ra rồi. Anh là người của Trình Minh Thế đã tham dự cuộc bắn thi ở Rừng Thơm. – Dạ phải. Thưa Khu trưởng tôi đến đây để xử tử Nguyễn Bình. Phản ứng của Nguyễn Bình thực mau lẹ, nhảy xéo qua đưa tay rút súng nhưng kẻ thi hành án lệnh còn nhanh hơn, bắn viên đầu trúng bả vai phải của Nguyễn Bình và ngay phát sau trúng ngực trái. Nguyễn Bình bỏ chạy về phía tượng Phật nhưng chỉ còn đưa tay trái ra nắm lấy chân tượng rồi từng phân một quỵ xuống, cuối cùng ngã ngửa trên sàn gạch rêu đã phủ xanh. Kẻ thi hành án lệnh muốn bắn thêm “phát ân huệ “. Từ phía cầu, tiểu liên nổ ròn tan và liên tiếp kế tiếng chân vội vã chạy về phía Miếu hoang. Kẻ thi hành án lệnh mỉm cười, đi về phía sau Miếu rồi mất dạng. Các vệ sĩ của Nguyễn Bình đã vào trong Miếu. Nguyễn Bình đương dãy dụa, hai tay ôm chặt lấy bụng, máu đỏ từ các kẽ tay tuôn ra nhuộm đỏ cả rêu xanh. Có tiếng hạ lệnh – Khiêng Khu trưởng xuống xuồng. Rút lui mau. Tiếng chèo khua nước, chiếc xuồng chở Nguyễn Bình nằm ngửa, chân còn dãy dụa vì đau đớn, rẽ sóng lướt mau trên mặt nước. Trên bờ dọc theo mé sông Vàm Cỏ Đông, sau những bụi dừa nước um tùm, đoàn quân của Trung Đoàn 25 đã phục kích sẵn với cả những khẩu đại liên Maxim’s. Xạ thủ đại liên hỏi vì hai chiếc xuồng đã nằm gọn trong ổ phục kích. – Thưa anh lớn, ta nhả đạn chứ ? Lưu Nhất đã chứng kiến từ lúc đầu khi Nguyễn Bình được khiêng xuống xuồng, chép miệng đáp – Không cần. Dẫu sao chăng nữa, Khu trưởng Nguyễn Bình cũng đáng được chôn cất đường hoàng chứ không đến nỗi phải… mò tôm tiếng của kháng chiến ám chỉ kẻ chết bị thả xuống sông. Vì muốn dành một chút danh dự cuối cùng cho một vị Khu trưởng mà sau này, kháng chiến Nam Bộ nổi lên biết bao sóng gió… *** Văn phòng bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 lại nhộn nhịp nhưng trong một phòng kín chỉ có Bùi Hữu Phiệt, Lưu Nhất, Sáu “Xếch xông”, vị Tham Mưu trưởng Trung Đoàn 25 và “anh lính Cao Đài” xạ thủ hội họp. Bùi Hữu Phiệt hỏi “anh lính Cao Đài” – Em có chắc Nguyễn Bình bị chết không ? – Thưa anh lớn, một phát trúng bả vai, một phát trúng ngực không nguy hiểm lắm, nhưng bốn phát trúng bụng thì tôi chưa thấy ai có thể chịu được. Lưu Nhất tiếp – Đạn Colt II, 45 bắn gần, có thể làm đứt từng khúc ruột. Bùi Hữu Phiệt quay qua hỏi Sáu “Xếch xông”. – Sao tới mãi hôm nay mới thi hành được một vụ ? Sáu “Xếch xông” vội đáp – Trong phiên họp khu bộ kỳ 2, Nguyễn Bình thấy em nhận lời… bên anh, thì mừng lắm muốn ra tay ngay nhưng cuối cùng lại trì hoãn bởi có bận nhiều công việc quan trọng khác. Y lưu em lại khu bộ, em nóng lòng muốn chết vì phải thông báo cho anh Mười rõ. Nguyễn Bình cũng rõ bổn phận của em sau khi đi họp, nên viết thư tay, cho liên lạc của khu bộ đi trao cho anh Mười nói rằng còn nhiều việc hệ trọng bàn với em nên phải trong một thời gian nữa mới về được. Cuối cùng em mới hiểu rằng Nguyễn Bình nghi ngờ em hay ít lắm, vào lúc giờ chót có thể thay đổi ý kiến nên giam lỏng em ở Khu để dò xét. Nhận được thư, anh Mười đã biết, rồi thông báo hành trình của tụi em hằng ngày cho anh biết. – Tại sao Nguyễn Bình lại phải làm thế? – Một phần y sợ đàn em không hoàn tất được sứ mệnh, phần nữa y phải kèm sát em sợ mưu toan bị lộ. Lưu Nhất gật đầu – Dĩ nhiên là Nguyễn Bình phải hành động như vậy. Sáu “Xếch xông” kể tiếp – Đã lọt vào nội địa bên Lò Đường rồi, em đề nghị Nguyễn Bình vào Miếu lánh mặt bởi lẽ tất cả các anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 đều biết mặt Khu trưởng. Nếu mẻ lưới không bắt được trọn bộ Tham Mưu, chỉ một tên thoát thôi cũng đủ vở lỡ hết mọi chuyện. Hơn nữa sự xuất hiện đột ngột của Khu trưởng có thể gây phản ứng bất ngờ mà anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 ai cũng có súng, ai bắn cũng mau như Khu trưởng đã biết. Nguyễn Bình công nhận hữu lý nên mới tạm lánh nơi miếu hoang. Sáu “Xếch xông ” chợt hỏi – Thí dụ như Nguyễn Bình không chịu vào Miếu thì các anh tính sao ? Lưu Nhất mỉm cười – Thì… tốn thêm ít viên đạn nữa. Gần tới cầu, anh Sáu thấy loáng thoáng vài người ra vào bộ Tham Mưu nhưng quanh sân, trung đội Thompson phòng vệ bộ Tham Mưu đã phục kích sẵn. Thí dụ như trung đội này thua tiểu đội tiểu liên của Nguyễn Bình thì còn vòng đai bên ngoài… Lưu Nhất nghiêm giọng – Sáng sớm hôm nay tôi mới được anh Tư lịnh Trung Đoàn cho hay, nhưng khi thấy Nguyễn Bình đặt chân lên Lò Đường là đã coi y như cái thây ma dầu y có mang theo cả một đại đội vệ binh vì cả đại đội này sẽ bị quân phục ven sông bắn chìm xuồng trước khi đặt chân lên đất liền. Thí dụ rằng, giờ phút chót, Nguyễn Bình đổi ý kiến, quay xuồng cùng tiểu đội cận vệ ra về thì máu loang nhiều trên sông Vàm Cỏ chứ làm sao thoát được tử thần. Sáu ” Xếch xông” rùng mình, Lưu Nhất hiểu ngay – Trong trường hợp đó thì cũng hơi nguy hiểm cho anh vì đạn vốn không có mắt. Sáu “Xếch xông” thắc mắc – Nhưng tại sao Nguyễn Bình lại thù hận các anh như vậy ? Bùi Hữu Phiệt đưa mắt cho Lưu Nhất rồi cùng phá ra cười – Không, Khu trưởng Nguyễn Bình không “ghét” chúng tôi như anh tưởng đâu. Câu hỏi của Sáu “Xếch xông” không phải là vô lý nhưng Bùi Hữu Phiệt và Lưu Nhất đã cười xòa, lãng sang chuyện khác bởi vì dầu sao cũng không cần phải cho Sáu” Xếch xông” hiểu biết về sự sống chết ngấm ngầm giữa Nguyễn Bình và Trung Đoàn 25 Bình Xuyên. —>Xem tiếp Pages 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

ai giết nguyễn bình